Phẫu thuật nội soi ít xâm lấn là khuynh hướng phát triển chung của phẫu thuật, ngành niệu khoa cũng không là ngoại lệ. Tuy nhiên, niệu khoa có điểm đặc thù là phẫu thuật đại đa số ở vùng sau phúc mạc nên phát triển phẫu thuật nội soi vùng sau phúc mạc là hướng đi thích hợp và nhiều triển vọng. Tại Khoa-Bộ môn Niệu bệnh viện Bình Dân đã phát triển phẫu thuật nội soi ổ bụng từ khoảng đầu năm 2001 và nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng từ tháng 8 / 2002. Bài viết này nhằm tổng kết các trường hợp nội soi sau phúc mạc vùng hông lưng mà bước đầu chúng tôi đã áp dụng trong điều trị ngoại khoa nang thận và sạn niệu quản đoạn trên.
Việc chẩn đoán nhanh và có thái điều trị chính xác các tình huống cấp cứu thường gặp trong niệu khoa sẽ giúp ích rất nhiều cho bệnh nhân về dự hậu cũng như bảo toàn tính mạng cho bệnh nhân
Các trường hợp cấp cứu niệu khoa khi xảy ra đều phải được chẩn đoán nhanh và điều trị ngay lập tức. Chương này chỉ tập trung vào các cấp cứu niệu- sinh dục không do chấn thương thường gặp ở phòng cấp cứu, phòng khám ngoại trú, bệnh nhân đang nằm viện.
Các bất thường về cơ quan niệu sinh dục chiếm tỉ lệ 10%. Các bất thường này chủ yếu là về giải phẫu học như: vị trí, kích thước, số lượng thận và niệu quản, tư thế xoay của thận. Vì vậy nghiên cứu về giải phẫu học của thận là điều cần thiết trước khi tìm hiểu về siêu âm thận nói riêng và siêu âm hệ tiết niệu sinh dục nói chung
Cắt bọng đái triệt căn bao gồm cắt bọng đái toàn phần và nạo hạch vùng chậu là phương pháp điều trị chuẩn mực cho các trường hợp ung thư bọng đái thể thâm nhiễm [13]. Mặc dù kết quả nạo hạch giúp xác định được giai đoạn của bướu để áp dụng các biện pháp điều trị hỗ trợ sau phẫu thuật [4] nhưng vai trò của việc nạo hạch trong ung thư bọng đái vẫn chưa được đánh giá đúng mức như trong các trường hợp ung thư bao tử, ung thư vú hoặc ung thư đại tràng trực tràng [5].
Các nguyên nhân của hội chứng bìu cấp ở trẻ em:Xoắn thừng tinh, xoắn mỏm phụ tinh hoàn, viêm mào tinh, tinh hoàn,thoát vị bẹn, tràn dịch tinh mạc, bướu tinh hoàn
Ở trẻ sơ sinh, các nguyên nhân thường gặp của khối u bụng: 75% các khối u bụng ở trẻ sơ sinh là các khối u của đường tiết niệu, trong đó thường gặp là: Thận ứ nước: thường gặp nhất là do hẹp khúc nối niệu quản bể thận, kế đến là hẹp khúc nối niệu quản- bàng quang, nang niệu quản lạc chỗ, van niệu đạo sau.Thận đa nang và Bướu (chiếm tỷ lệ 12% các khối u bụng. Thường gặp nhất là neuroblastoma, mesoblastic nephroma, sacrococcygeal teratoma. Các nguyên nhân hiếm gặp hơn bao gồm teratoma của dạ dày, leiomyosarcoma, hepatoma
Bệnh thận đa nang là bệnh lý nang bẩm sinh của thận. Các thành phần bình thường của thận dãn ra thành nang. Trái lại các nang của một thận nhiều nang không phải do sự dãn ra của các yếu tố của thận mà toàn bộ thận không co dãn và bao gồm mô đệm không trưởng thành và các nang nhiểu kích thước khác nhau.
Valve niệu đạo sau là một bất thường bẩm sinh do một nếp gấp của niêm mạc niệu đạo sau tạo nên giống như một màng chắn mỏng ngăn chặn sự tống thoát nước tiểu từ bàng quang. Tần suất là 1/8000 trẻ em nam, không gặp ở trẻ em nữ.
Lổ tiểu đóng thấp Là tình trạng miệng niệu đạo thay vì nằm ở đỉnh của dương vật thì lại nằm ở mặt bụng của dương vật. Ða số các trường hợp không có tính chất là bệnh gia đình. 7% những đứa trẻ lổ tiểu đóng thấp có cha bị lổ tiểu đóng thấp và 14% anh em trai bị lổ tiểu đóng thấp. Nếu trong gia đình không có ai bị lổ tiểu đóng thấp, một trẻ sinh ra bị lổ tiểu đóng thấp thì nguy cơ bé trai kế tiếp bị lổ tiểu đóng thấp là 12%. Tỷ lệ này là 19% nếu đã có một thành viên khác trong gia đình bị lổ tiểu đóng thấp ( anh em họ). Nguy cơ này lên đến 26% nếu trẻ có cha bị lổ tiểu đóng thấp.